Buôn bán sừng tê ngưu ngoài luồng cốt do những kẻ xuất khẩu phạm pháp gây ra

Vào năm 1994, CITES cho phép buôn bán tê giác sống và săn bắn tê giác trắng làm chiến lợi phẩm. Bảo tàng tê giác trong mối liên hệ giữa Việt Nam và Nam Phi Trên thế giới, buôn bán sừng tê giác giữa Nam Phi và Việt Nam được coi là một trọng điểm với những đặc trưng mang tính toàn cầu.
Theo sách Đỏ Việt Nam năm 2007, số loài động, thực vật hoang dại bị đe dọa đã lên tới 882, tăng trên 22% so với năm 1992; nếu xu hướng này không được ngăn chặn, chúng ta sẽ phải chứng kiến "làn sóng tuyệt chủng" của nhiều loài sinh vật quý hiếm với mức độ chưa từng thấy trong lịch sử.
Theo M. Trong số 43 vụ bắt giữ lớn người châu Á liên hệ tới tù tê ngưu ở Nam Phi, người Việt Nam chiếm tới 56%, tiếp đó là Trung Quốc 28%. Báo động đỏ Quỹ toàn cầu về phúc lợi động vật (IFAW) nhận định, internet là dụng cụ; cung cấp cơ hội hình như vô tận cho hoạt động tầy buôn bán động vật hoang dã (ĐVHD).
Việt Nam là một nhà nước có tê giác, đây từng là nơi trú ngụ của quần thể tê giác cực kỳ khẩn cấp còn tồn tại trên lục địa châu Á là loài Java Rhinoceros sondaicuss annamiticus, nhưng con cuối cùng đã bị bắn chết.
Từ nhu cầu ảo đó, người ta thường tìm đến những người có quan hệ với nơi có sừng tê giác như viên chức ngoại giao, người buôn bán ĐVHD, ưng chuẩn các mối quan hệ trung gian không công khai; hiếm khi người mua gặp được người thực sự bán, đã tạo nên nhiều khó khăn thách thức trong quản lý ĐVHD.
Nam Phi đã dự công ước CITES và đã trở nên nước thành công nhất về bảo tàng tê ngưu với tỷ lệ chiếm 83% số lượng còn lại của cả châu Phi và gần 3/4 trên toàn thế giới. Ngoại giả, màng lưới buôn bán bất hợp pháp mỗi năm còn cung cấp hàng trăm chiếc sừng từ nhiều nguồn khác, bao gồm cả săn bắn trộm, ăn cắp và sừng trong những kho không đăng ký của khu vực tư nhân tại Nam Phi.
Buôn bán sừng tê giác ở Nam Phi đã phát triển nhanh, trở nên hoạt động tinh vi theo luật riêng của các băng tù đọng. 300 con, chiếm 5-6% lượng tê ngưu trắng được bảo tàng. Số tê ngưu bị giết liên tục gia tăng đã miêu tả, cuộc khủng hoảng bảo tàng chưa từng có đã diễn ra cùng với việc sử dụng khí giới chuyên dụng, phi cơ trực thăng.
Có thể thấy, trong 35 năm săn bắn tê giác diễn ra ở Nam Phi không có dấu hiệu của lạm dụng, nhưng từ năm 2003 đã có những dấu hiệu thất thường do sự gia tăng đáng kể thợ săn phi truyền thống, đặc biệt đến từ Việt Nam (chiếm 48% trong tổng số 384 người vào tháng 5-2012).
Ngoại giả nhiều loài chim và trứng cũng đang bị đe dọa… ít của Tổ chức Cảnh sát hình sự quốc tế (Interpol) năm 2013 cho thấy, chỉ trong 2 tuần đã có hàng trăm sản phẩm buôn bán trị giá hàng triệu USD; riêng ba nước Anh, Pháp, Đức chiếm 15,2% tổng lượng buôn bán toàn cầu về các loài ĐVHD theo công ước quốc tế về buôn bán các loại động, thực vật hoang dại khẩn (CITES).
Từ năm 1995 đến 2011, số tê ngưu được đấu giá và săn bắn khoảng từ 1. Knight, số tê ngưu bị giết năm 2010 là 333 con, đến năm 2011 tăng lên 448 và theo ước tính năm 2012 khoảng 532 con (TRAFFIC 2012).
Riêng về giá trị cốt lõi trong chữa trị các bệnh hiểm nghèo, họ nặng về cảm tính, theo sự phao đồn; tác dụng kì diệu của sừng tê giác mang tính trấn an tinh thần; chưa có những xác minh khoa học tin cẩn được đề cập trong bất kỳ cuốn sách nào viết về việc chữa được bệnh ung thư.
Theo số liệu của CITES, từ năm 2003 đến 2010, có 657 chiếc sừng tê giác xuất khẩu hợp pháp từ Nam Phi vào Việt Nam, song được ghi nhận nhập khẩu chỉ có 170, đồng nghĩa với 74% không được khai báo. Những thợ săn này mở mang săn bắn trộm khiến số lượng tê ngưu bị sát hại gia tăng đột biến. Ở Việt Nam, kết quả điều tra của Hiệp hội bảo tồn ĐVHD (WCS) năm 2012 đã chỉ ra, buôn bán sản phẩm ĐVHD là hiện tượng phổ biến trên internet với 23 loài cấm thuộc Nghị định 32 của Chính phủ và 22 loài theo công ước CITES.
Hệ thống luật pháp theo công ước quốc tế về bảo tàng động, thực vật hoang dã mà Việt Nam dự đã có những quy định nghiêm nhặt và chém; hy vọng, các cơ quan thực thi thực hiện công tâm, xử phạt nặng những hành vi dù vô tình hay cố ý sai phạm. Chỉ có như vậy, chúng ta mới có thể cứu vãn được nguy cơ tuyệt chủng cao của những động vật quý hiếm cần được bảo tồn trong sách đỏ Việt Nam.
Theo TRAFFIC, buôn bán trái phép sừng tê ngưu được thực hiện theo đường dây từ những tội nhân săn bắn trộm rồi qua hàng loạt trung gian là người mua, nhà xuất khẩu, người tải cả ở cấp địa phương và quốc tế để đến tay người tiêu dùng chung cục.
Tê giác một sừng không còn tồn tại ở Việt Nam. Phạm vi buôn bán ĐVHD trải rộng trên địa bàn cả nước, đặc biệt sôi động là Hà Nội (chiếm 15%) và TP Hồ Chí Minh (khoảng 24% thị phần cả nước). Sản phẩm buôn bán phổ biến là nhung hươu nai, mật gấu, ngà voi, sừng tê giác và sản phẩm từ da cá sấu… Trong số sản phẩm này, 61% dùng làm thuốc; thực phẩm chiếm 4%, dùng vào trang trí 9% và đồ dùng khoảng 22%.
Thực tiễn đáng buồn trên cho thấy thị trường buôn bán phi pháp sừng tê ngưu và ĐVHD ở nước ta phát triển nhanh, không chỉ dẫn đến tình trạng tuyệt diệt những loài động vật quý hiếm trong nước mà còn gây hệ lụy xấu đối với bảo tàng tê giác toàn cầu, đặc biệt là ở Nam Phi.
Tuyệt diệt tê ngưu là sự mất mát to lớn đa dạng sinh học và hoạt động buôn bán sừng tê giác ở Việt Nam đã chuyển sang một nguồn cung mới từ châu Phi, nơi những tù hãm tham dự buôn bán khá nườm nượp.
Nhận diện về người mua và sử dụng sừng tê ngưu, trong ít cuối tháng 7 năm 2013, tổ chức Mạng lưới giám sát hoạt động buôn bán thực, ĐVHD (TRAFFIC) đã chỉ ra: người mua thường là nữ giới trung niên hoặc nhiều tuổi, có học vấn và ấm no; phần lớn mua cho người khác hoặc để biếu tặng; người sử dụng chủ yếu là đàn ông có tuổi thuộc lớp người no đủ; những người có ý định mua số đông ở độ tuổi luống tuổi, không no đủ như người mua, song vẫn thuộc xã hội khá giả.
Buôn bán sản phẩm từ ĐVHD đã tập hợp vào ngà voi và sản phẩm được làm từ bộ phận của voi; mật gấu; sừng tê ngưu và sản phẩm từ sừng tê giác; hổ sống, cao hổ, áo khoác da hổ báo; mai và mặt hàng trang sức được làm từ đồi mồi, rùa có nguy cơ tuyệt chủng; động vật linh trưởng, khỉ đột, tinh tinh; các loài bò sát, da và sản phẩm của những loài khẩn cần bảo vệ.
000 đến 1. Sừng tê ngưu được tầng lớp phong lưu ở Việt Nam coi là vật quý hiếm, họ thèm muốn và truy lùng tạo ra nhu cầu sở hữu nhằm chữa những bệnh nan y, còn hồ hết phạm nhân can hệ lại không sử dụng sừng tê ngưu để chữa những căn bệnh này.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét