Trước đây, ngay từ cuối năm 2009, Quốc hội đã đề nghị Chính phủ phải sớm đệ trình dự Luật Đầu tư công, để khắc phục những yếu kém trong quản lý quốc gia về đầu tư công, hạn chế tình trạng phê duyệt dự án tràn lan, không phát huy hiệu quả, gây thất thoát, tham nhũng, phí phạm, khiến cho gánh nợ ngân sách ngày càng nặng

Song, các quy định mới, lẽ ra cũng không cần đến nếu các bên phê chuẩn và dùng vốn đầu tư công chấp hành đúng quy định hiện có của Luật Đầu tư, Luật Xây dựng bởi vốn trong hay ngoài ngân sách đều phải tính đến hiệu quả và khả năng thu hồi vốn (với các dự án đầu tư công là khả năng trả nợ của ngân sách).
Các ví dụ điển hình phải nhắc đến là việc chính quyền các địa phương nợ tiền xây dựng căn bản 91.
Hoặc duyệt hàng loạt các chủ trương đầu tư lớn nhưng không tính đến nguồn vốn khiến các dự án thiếu khả thi, hoặc làm dở dang.
Nếu muốn giữ nguyên việc phân cấp thì việc kết hợp và giám sát phải được đặt lên hàng đầu, nhưng dự luật chưa quy định cụ thể (tính từ quá trình thẩm định chủ trương, quyết định đầu tư). Nói khác đi là thảy các dự án có dùng một phần hay tuốt luốt vốn ngân sách sẽ chịu quy định của luật này theo từng cấp độ dùng vốn.
Theo đó chỉ được phê chuẩn dự án khi đã được các cấp có thẩm quyền duyệt chủ trương đầu tư, xác định được nguồn vốn và khả năng cân đối vốn. Ảnh: tao nhã. Về lý, các nguồn này chịu sự quản lý và giám sát rất chặt từ trung ương đến địa phương, qua nhiều tầng nấc và nhiều luật định, như Luật NSNN, Luật Đầu tư, Luật Xây dựng.
Hoặc chỉ được thông qua quyết định chủ trương đầu tư các chương trình, dự án khi không trùng lắp với các chương trình, dự án khác trong quy hoạch, kế hoạch là rất khó, bởi sự kết hợp giữa các bộ, ngành, địa phương ở nước ta là rất kém. 092 dự án kiểu như vậy. Vậy thì Luật Đầu tư công giải quyết thế nào các quy định chồng chéo thiếu hiệu quả giữa các luật nói trên? Bộ Kế hoạch và Đầu tư (KH-ĐT), cơ quan soạn luật cho rằng thẩm quyền và lớp lang thủ tục phê chuẩn các chương trình đầu tư công từ trước đến nay chưa có.
Dự thảo Luật Đầu tư công được đưa ra lấy ý kiến trong thời điểm này, muốn gì chăng nữa phải giải quyết được hai vấn đề lớn: 1) Các quy định đề ra có hạn chế và chấm dứt được tình trạng chuẩn y dự án tràn lan hay không? 2) Có quy được nghĩa vụ đối với những người có thẩm quyền ưng chuẩn dự án không, do từ trước đến nay xảy ra rất nhiều trường hợp dự án đầu tư công không hiệu quả nhưng cuối cùng không ai chịu nghĩa vụ.
Theo dự thảo luật, sẽ tập trung quản lý vơ quá trình sử dụng các nguồn vốn đầu tư công từ ngân sách, công thải nhà nước, trái khoán chính phủ, trái khoán chính quyền địa phương, nguồn vốn tương trợ phát triển chính thức (ODA) và vốn vay ưu đãi của các nhà tài trợ, tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước và các khoản vốn đầu tư khác có tính chất ngân sách Nhà nước (NSNN), các khoản vốn vay của ngân sách địa phương để đầu tư xây dựng công trình kết cấu hạ tầng.
Hiện Chính phủ đã chỉ đạo các địa phương phải bố trí 30% vốn ngân sách hàng năm để trả dần các khoản nợ này. Đơn cử như trường hợp UBND tỉnh Thanh Hóa thấy cần thiết phải xây dựng một trường bay ở tỉnh, cho dù Nghệ An ở kế bên đã có trường bay. Bội chi ngân sách phải dự định tăng từ 4,8% lên 5,3% GDP cho giai đoạn 2014-2016 mới có vốn hoàn thành 1.
Và sẽ càng khó hơn bởi ngay trong dự luật, phần bổn phận của các chủ thể can hệ đến việc quản lý và sử dụng vốn đầu tư chưa có quy định xác định cụ thể trách nhiệm cá nhân, trách nhiệm người đứng đầu, người có thẩm quyền phê chuẩn các dự án đầu tư công trong trường hợp ra các quyết định sai, kém hiệu quả, làm tăng vốn.
Việc quy trách nhiệm người ra chủ trương, quyết định đầu tư bởi thế sẽ khó mà thực hiện được. Bằng cớ của việc duyệt y các dự án đầu tư công tràn lan nhiều không kể hết. 000 tỉ đồng đến nay chưa trả khiến cho hàng ngàn doanh nghiệp lảo đảo.
Để giải quyết mối e sợ lớn nhất bây chừ là việc duyệt tràn lan các dự án đầu tư công, dự luật đề ra các quy định chặt từ khâu xác định chủ trương đầu tư. Ngọc Lan Dù quốc gia đã có quyết định siết những dự án đầu tư công không hiệu quả, nhưng nhiều địa phương vẫn xin được xây sân bay, cảng biển.
Muốn xóa bỏ vấn nạn này, rất cần phải quy định cụ thể trong luật về trường hợp “các duyên cớ bất khả kháng làm đổi thay mục tiêu, nội dung đầu tư, chi phí. ” Là gì. Nếu không thì diện dự án được điều chỉnh tổng mức đầu tư sẽ có nguy cơ lan rộng.
Chưa tính đến việc thiếu vốn cho các dự án mới. Thêm vào đó quá trình phân cấp và cát cứ tại địa phương còn lớn hơn nên tình trạng trùng lắp quy hoạch đầu tư, vung phí là chuyện bình thường.
Các quy định thiếu rõ ràng, không xuyên suốt, thiếu bao quát nên lỗ hổng thất thoát đầu tư công bởi vậy cứ lớn dần. Những khoảng trống kiểu như vậy trong dự luật nếu không được lấp thì việc cho ra đời thêm một luật mới, vốn đã trễ hẹn, lại chưa trúng đích chẳng khác gì tình trạng “thêm bát, thêm mâm” trên bàn làm luật.
Sau hơn bốn năm trễ hẹn, dự thảo Luật Đầu tư công sẽ được trình ra tại kỳ họp Quốc hội lần này. Nhưng thực tiễn các quy định thiếu rõ ràng, không xuyên suốt, thiếu bao quát nên lỗ hổng thất thoát đầu tư công bởi thế cứ lớn dần.
Nói như thế không có nghĩa rằng từ trước đến nay các khoản vốn đầu tư có nguồn vốn từ ngân sách bị thả nổi. Do chưa có nguồn vốn để làm việc này, tỉnh cầu cứu Bộ KH-ĐT và rốt cục Bộ Giao thông chuyên chở phải đưa ra giải pháp trung hòa là cho Thanh Hóa nâng cấp trường bay quân sự Sao Vàng phục vụ cả mục đích dân dụng. Mặt khác, vấn nạn của các dự án đầu tư công là hay điều chỉnh tổng mức đầu tư, làm “đội” vốn.
Song với việc phân cấp cụ thể quyền lập, giám định và phê chuẩn dự án vẫn theo quy định hiện hành, liệu có giải quyết được việc duyệt y tràn lan. Nếu có, như quy định của Luật Xây dựng, lại không quy định chi tiết về nội dung lập, thẩm định và chuẩn y dự án.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét